10 lần thiên nhiên chấm dứt những xung đột của loài người
Có lẽ nhiều khi tự nhiên đã chịu đựng đủ cảnh loài người chúng ta tàn sát lẫn nhau đến nỗi phải can thiệp. Trong suốt chiều dài lịch sử, lục quân hay hải quân đều luôn phải đối mặt với các cuộc chiến để rồi chỉ thấy mình chiến đấu một cách điên cuồng không ngừng nghỉ.
Tự nhiên có thể chia tách các bên tham chiến, buộc một hoặc cả hai phải rút lui. Vào một vài thời khắc, nó còn đưa ra đòn quyết định dẫn đến thất bại nặng nề cho một bên và có lợi cho bên còn lại. Hoặc nó chỉ đơn giản ngăn chặn những cuộc tàn sát đẫm máu cho những bên yếu thế hơn.
10. Cơn bão ngăn chặn cuộc tấn công của Mông Cổ vào Nhật Bản
Năm 1274, một hạm đội Mông Cổ gồm 500 đến 900 tàu chở 30.000- 40.000 lính rời Trung Quốc để tấn công và đánh chiếm Nhật Bản. Các tàu neo đậu tại vịnh Hakata, Nhật Bản, dự báo một cuộc xâm lược cho đến khi chúng bị phá hủy bởi một cơn bão. Một phần ba hạm đội bị chìm. Khoảng 13.000 binh sĩ bị chết đuối, những người sống sót buộc phải rút về Trung Quốc.
Người Mông Cổ không nản chí đã trở lại vào năm 1281 với 4.400 tàu và 140.000 binh sĩ. Con số này lớn hơn nhiều so với 40.000 samurai và binh lính Nhật Bản. Thời tiết lại đứng về phía Nhật Bản một lần nữa khi một cơn bão khác phá hủy hạm đội xâm lược ngay trước khi chúng tấn công vào ngày 15 tháng 8. Một nửa quân Mông Cổ đã chết, và gần như tất cả các tàu đều bị phá hủy. Chỉ một số ít trở về Trung Quốc. Các samurai cũng săn lùng và giết chết những người sống sót. Người Nhật rất ấn tượng với cơn bão năm 1281 đến nỗi họ đã hình thành từ kamikaze (gió thần thánh) để chỉ một cơn bão. Họ tin rằng các cơn bão đã được gửi đến bởi các vị thần. [nguồn]
9. Hòn đảo tranh chấp giữa Ấn Độ và Bangladesh đã chìm xuống đại dương
Đảo Moore là một mảnh đất nhỏ, không có người ở giữa Ấn Độ và Bangladesh. Nó chỉ dài 3,5 km, rộng 3 km và chỉ cách mặt nước 2 mét. Hòn đảo được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1974. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho biết nó đã tồn tại được khoảng 50 năm. Ấn Độ và Bangladesh đều tuyên bố xác nhận hòn đảo này sau khi phát hiện ra nó. Năm 1981, Ấn Độ thậm chí đã gửi một số tàu và nhân viên từ Lực lượng An ninh Biên giới của mình để treo cờ trên đảo. Mọi thứ bắt đầu thay đổi vào năm 1987 khi hình ảnh vệ tinh cho thấy hòn đảo đang dần chìm xuống. Đến năm 2010, nó đã biến mất. [nguồn]
8. Một cơn bão đã kết thúc cuộc xâm lược của Pháp
Năm 1796 là một năm đầy biến động đối với quan hệ của Anh và Pháp. Anh đã tài trợ cho một số quý tộc bất mãn và phiến quân chống lại hoàng đế Pháp. Đồng thời, Anh cũng trợ cấp cho một số quốc gia đồng minh trong cuộc chiến chống Pháp. Điều này đã thúc đẩy người Pháp âm mưu trả thù.
Thay vì xâm lược trực tiếp vào Anh, Pháp đã hợp tác với những người yêu nước Ireland đang đấu tranh giành độc lập từ Anh để giúp họ đánh bại nước Anh. Sau khi thực hiện, Ireland sẽ biến thành đồng minh của Pháp và thoát khỏi sự ảnh hưởng của Anh.
Vào ngày 15 tháng 12 năm 1796, một lực lượng quân Pháp gồm 15.000 binh sĩ rời Pháp trên một số tàu chiến. Giữa chừng, hạm đội gặp rắc rối sau khi họ bị ngăn bởi một cơn bão khủng khiếp. Một số người đã đến Vịnh Bantry, nơi hạm đội đã lên kế hoạch gặp nhau trước cuộc xâm lược. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã bị đình trệ vì một số tàu, trong đó có tàu Fr Parentite chở Tướng Hoche chỉ huy chiến dịch vẫn còn mất tích. Hạm đội đã rời đi vài ngày sau vì lo ngại thời tiết trở nên tồi tệ hơn và quân Anh có thể tấn công. Tướng Hoche cuối cùng đã đến với con tàu của mình. Nhưng ông được thông báo rằng hạm đội Pháp đã đến và sau đó rời đi. Ông cũng rời Pháp và chấm dứt cuộc xâm lược.
Một điều thú vị khác là nỗ lực của Cộng hòa Batavian để xâm chiếm Anh vào năm sau cũng bị cản trở bởi thời tiết xấu. Cuộc tấn công đã bị đình chỉ sau khi một cơn bão ngăn hạm đội rời cảng. [nguồn]
7. Mùa đông năm 1709 của Nga đã đánh bại quân đội Thụy Điển
Nếu các chiến lược gia quân sự phải đưa ra một lời khuyên về việc xâm chiếm Nga, thì đó là hãy tránh việc xâm lược ngay trước mùa đông, nếu không thì tốt nhất nên ra khỏi đó trước khi mùa đông đến. Một số chỉ huy quân sự như Adolf Hitler và Napoleon Bonaparte phải rất khó khăn để phát hiện ra điều này sau khi họ bị đánh bại bởi mùa đông khắc nghiệt của Nga.
Năm 1708, 40.000 binh sĩ Thụy Điển đã xâm chiếm Nga như một phần của Chiến tranh phương Bắc vĩ đại giai đoạn 1700 – 1721. Vào thời điểm đó, quân đội Thụy Điển nhỏ hơn nhưng chuyên nghiệp hơn, đã nổi tiếng vì đánh bại các đối thủ lớn hơn trong trận chiến. Đối mặt với thất bại, người Nga đã ẩn mình và đốt cháy những ngôi làng. Đây được gọi là Tiêu thổ, một chiến thuật được Nga sử dụng để đảm bảo kẻ thù không thể sống trên bất cứ thứ gì được bỏ lại. Đồng thời, một số đơn vị Nga phục kích các đơn vị tiếp tế của Thụy Điển, khiến người Thụy Điển không đủ nguồn cung.
Trận đại hàn 1709 sắp bắt đầu. Đó là mùa đông lạnh nhất ở châu Âu trong 500 năm. Thiếu nguồn cung nhu yếu cơ bản, quân đội Thụy Điển bị lạnh cóng cho đến chết. Khoảng 2.000 người chết trong một đêm, và một nửa đã chết khi mùa đông kết thúc. Những người sống sót bị mất tinh thần đã cố gắng tiêu diệt Nga khi mùa hè đến, nhưng họ không thể sánh được với 80.000 binh sĩ Nga. Cuối cùng, chỉ còn có 543 binh sĩ Thụy Điển sống sót. [nguồn]
6. Một cơn bão kinh hoàng đã phá hủy Hạm đội Tây Ban Nha đang cố gắng xâm chiếm nước Anh
Năm 1588, Vua Philip II của Tây Ban Nha quyết định rằng ông chịu đựng quá đủ Nữ hoàng Elizabeth và quyết định lật đổ và thay thế bà bằng một người Công giáo La Mã. Vì vậy, ông đã ra lệnh cho 130 tàu ra khơi đến Flanders đón 30.000 quân cho cuộc xâm lược.
Người Anh giữ thế chủ động và đánh chặn người Tây Ban Nha ngay ngoài khơi Plymouth. Hải quân của cả hai tham chiến trong bế tắc. Người Tây Ban Nha cuối cùng đã bị đánh bại khi một cơn bão xô tàu của họ ra khỏi Flanders và xa ra đại dương. Với mối đe dọa về bệnh tật và nguồn cung nhu yếu phẩm thấp, người Tây Ban Nha quyết định từ bỏ chiến tranh và trở về Tây Ban Nha. Cơn bão tiếp tục vùi dập Hạm đội khi rút lui, khiến một số tàu bị chìm hoặc đâm vào bờ. Chỉ có 60 trong số 130 tàu trở về Tây Ban Nha và 15.000 thủy thủ đã thiệt mạng. [nguồn]
5. Bão bụi đã chấm dứt nỗ lực của Mỹ đối trong việc giải cứu con tin ở Iran
Vào ngày 4 tháng 11 năm 1979, các sinh viên Iran đã xâm chiếm Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Tehran, bắt 52 nhà ngoại giao và nhân viên đại sứ quán làm con tin. Tổng thống Jimmy Carter sau đó đã ra lệnh cho một hoạt động quân sự để giải thoát con tin. Hoa Kỳ không có chỉ huy hoạt động đặc biệt vào thời điểm đó, vì vậy các đơn vị khác nhau của quân đội đã được tập hợp lại cho cuộc tấn công.
Các hoạt động đã bị phá sản ngay từ đầu bởi các đơn vị chưa từng được đào tạo cùng nhau. Các vấn đề nảy sinh khi những chiếc máy bay vận tải C-130 và máy bay trực thăng RH-53D gặp bão cát trong khi bay đến một điểm hẹn có tên mã là Sa mạc 1. Các máy bay đã bay qua cơn bão. Nhưng các trực thăng không thể được và buộc phải trở về căn cứ. Sáu trong số tám máy bay trực thăng sau đó trở về Sa mạc 1, nhưng một chiếc đã bị hư hại khi hạ cánh.
Chiến dịch bị hủy bỏ vì năm máy bay trực thăng không đủ để đạt được mục tiêu. Tất cả các đơn vị được lệnh quay trở lại căn cứ. Thật không may, một cơn bão cát đã cản trở tầm nhìn của một chiếc máy bay C-130 cất cánh từ sa mạc 1. Máy bay đâm sầm vào một chiếc trực thăng bay trên đầu, khiến cả hai rơi xuống đất. Tám thuyền viên đã thiệt mạng. Những đội quân, trực thăng và máy bay còn lại vội vã rút lui.
Sự thất bại của chiến dịch buộc học thuyết quân sự của Hoa Kỳ phải thay đổi. Bộ Quốc phòng cũng tạo ra Bộ chỉ huy hoạt động đặc biệt của Hoa Kỳ (USSOCOM) để phối hợp hoạt động giữa tất cả các lực lượng đặc biệt của quân đội Hoa Kỳ. [nguồn]
4. Mây mù, mưa và sấm sét ngăn chặn Hitler tiêu diệt quân đồng minh tại Dunkirk
Quân đội đồng minh trú tại Pháp không thể so được với Đức Quốc xã trong cuộc xâm lược Pháp năm 1940 và phải chạy trốn đến cảng Dunkirk sau một loạt thất bại. Người Đức có thể đã đuổi kịp và tàn sát quân Đồng minh, nhưng Hitler đã ra lệnh cho họ dừng lại. Điều này đã giúp cho quân Đồng minh đủ thời gian để bắt đầu rút lui vội vã khỏi Dunkirk vào ngày 26 tháng 5.
Ngày hôm sau, Nguyên soái Walter von Brauchitsch đã thuyết phục Hitler tiếp tục cuộc tấn công. Nhưng quân Đồng minh đã tập hợp các tuyến phòng thủ mạnh hơn vào thời điểm xe tăng Đức đến, nên Hitler đã ra lệnh cho xe tăng dừng lại và tấn công ở nơi khác. Đến ngày 4 tháng 6, hơn 338.000 quân Anh, Pháp và Bỉ đã bỏ Dunkirk cho Anh. Lý do tại sao Hitler ngăn chặn quân đội của ông ta tàn sát quân Đồng minh vẫn chưa rõ ràng.
Một số người tin rằng Hitler mong người Anh đầu hàng. Những người khác nghĩ rằng Reichsmarschall Hermann Goring, chỉ huy của Luftwaffe (không quân Đức Quốc xã), đã bảo đảm với Hitler rằng Luftwaffe có thể tiêu diệt quân Đồng minh mà không cần quân đội. Nếu sau đó là sự thật, thì người Đức không thể tấn công quân Đồng minh bởi mây mù mưa và sấm sét đã ngăn Luftwaffe tiến hành các cuộc không kích vào các mục tiêu của quân Đồng minh. Luftwaffe đã tấn công trong hai ngày rưỡi khi bầu trời quang mây tạnh, nhưng nó không đủ để tạo ra chuyển biến. [nguồn]
3. Một cơn bão tàn phá Hạm đội Pháp trong Trận chiến Trafalgar
Vào ngày 21 tháng 10 năm 1805, Hải quân Anh đã chiến đấu chống lại hải quân thống nhất của Tây Ban Nha và Pháp. Người Pháp và người Tây Ban Nha đã bị đánh bại trong trận chiến nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến khi một cơn bão ập đến và tàn phá phần còn lại của hạm đội của họ.
Tàu Fougueux của Pháp là nạn nhân đầu tiên của cơn bão. Bị bắt trong trận chiến, nó đang bị tàu Phoebe của Anh kéo đi thì vùng biển có bão mạnh đã khiến sợi dây bị đứt. Con tàu đâm sầm vào một số tảng đá, các thủy thủ Pháp và Anh trên tàu thiệt mạng. Redoutable Pháp đã thất thủ trong hoàn cảnh tương tự vào ngày hôm sau. Một số tàu Pháp khác bị Anh chiếm giữ cũng có nguy cơ bị chìm. Các thủy thủ Pháp trên Algesiras đã nổi dậy chống lại những kẻ bắt giữ người Anh của họ. Người Anh đã đầu hàng những phiến quân này vì họ không muốn Algesiras bị chìm. Các tàu Pháp do Thuyền trưởng Cosmao-Jerjulien chỉ huy đã cố gắng chống trả nhưng bị hạn chế bởi sương mù và bão. Người Anh cũng gặp khó khăn trong việc kiểm soát tàu của họ và tàu Pháp dưới sự chỉ huy của họ.
Vào ngày 24 tháng 10, vùng biển bão tố buộc Đô đốc Anh Collingwood phải ra lệnh từ bỏ và phá hủy tất cả các tàu bị bắt. Mười bốn trong số các tàu Pháp và Tây Ban Nha bị bắt đã bị phá hủy. [nguồn]
2 Một đội kỵ binh Pháp bắt một hạm đội Hà Lan
Ngày 23 tháng 1 năm 1795 là một trong những ngày kỳ lạ nhất trong lịch sử chiến tranh. Một đội kỵ binh đã bắt được một số tàu chiến. Điều đó thậm chí không thể xảy ra vì kỵ binh sử dụng ngựa và chiến đấu trên đất liền trong khi hải quân sử dụng tàu và chiến đấu trên mặt nước. Các con tàu đã bị bắt trong trận Texel trong Chiến tranh Cách mạng Pháp. Một cơn bão đã khiến một hạm đội Hà Lan phải neo đậu ở eo biển Marsdiep ngay cạnh đảo Texel, Hà Lan. Người Hà Lan chờ cơn bão đi qua, nhưng họ không thể rời đi vì nước quanh bờ đã đóng băng.
Người Pháp đã nghe về vấn đề hạm đội và gửi một đội kỵ binh. Người Hà Lan nhìn thấy người Pháp và cân nhắc việc phá hủy tàu của họ để ngăn chặn việc bị bắt giữ. Tuy nhiên, họ đã từ bỏ ý tưởng này khi nghe tin các nhà cách mạng Pháp đã chiến thắng trong cuộc chiến. Người Hà Lan đầu hàng với điều kiện người Pháp cho phép họ ở lại trên tàu của họ. [nguồn] Tuy nhiên, các báo cáo chỉ ra rằng hạm đội Hà Lan không phải là những kẻ vô công rồi nghề và có thể đã chiến đấu trở lại. Người Hà Lan có súng lớn hơn và số lượng tàu là 14 chiếc. Người Pháp cũng cần thang để leo lên tàu, nhưng họ không có bất kỳ cái nào.
1. Một cơn bão bất ngờ buộc quân Liên minh (The Union) phải từ bỏ Trận chiến đầu tiên của Pháo đài Fisher
Trận chiến đầu tiên của Pháo đài Fisher đã diễn ra vào ngày 23 tháng 12 năm 1864, khi quân đội Liên minh (The Union) dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Benjamin Butler và Chuẩn Đô đốc David D. Porter đã cố gắng chiếm lấy Pháo đài Fisher từ Liên minh miền Nam. Vào thời điểm đó, tất cả các cảng Liên minh ngoại trừ Wilmington, Bắc Carolina, đều nằm dưới sự kiểm soát của Liên minh.
Cảng tại Wilmington được bảo vệ bởi Fort Fisher. Cuộc tấn công đã bị trì hoãn khi những cơn bão lớn ngăn cản hạm đội ra khơi. Các tàu Liên minh cuối cùng đã ra khơi vào ngày 14 tháng 12 và đến Fort Fisher vào ngày 19 tháng 12. Tổng đốc và người của ông đã sớm rút lui vì lo ngại về một cơn bão đang đến gần.
Đô đốc Porter đã phát động một cuộc tấn công khi cơn bão lắng xuống vào ngày 23 tháng 12. Tướng Butler và người của ông trở lại vào tối hôm đó nhưng không tấn công pháo đài vì lo ngại rằng Liên minh đã được chuẩn bị. Cuối cùng, Butler đã ra lệnh rút lui khi nghe tin một cơn bão khác đang diễn ra và Đơn vị của Thiếu tướng Robert Hoke đã đến bảo vệ pháo đài. Tuy nhiên, cơn bão cũng không bảo vệ Liên minh được lâu dài. Một tuần sau Liên minh đã bị bắt bởi một lực lượng Liên minh khác do Thiếu tướng Alfred H. Terry chỉ huy. [nguồn]
Bài dịch từ Listverse